Việt Nam với lịch sử về dày là một nước nông nghiệp, sở hữu tài nguyên du lịch gắn với thiên nhiên và văn hóa, đó là tiềm năng to lớn có thể tạo nên những sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn đối với các du khách trong và ngoài nước.
Về tài nguyên rừng:
Việt Nam đang sở hữu nguôn tài nguyên đa dạng phong phú, với những khu rừng nguyên sinh trãi dài khắp nơi trên cả nước, là nơi lưu giữ nhiều gen quý hiếm về động thực vật; là tiềm năng để khai thác phát triển thành sản phẩm du lịch xanh và du lịch trải nghiệm.
Về du lịch nông nghiệp:
Với đặc thù là một nước có nền nông nghiệp đang phát triển, Việt Nam có nhiều sản phẩm nông nghiệp đa dạng và phong phú, đó là những vườn cây ăn quả, những đôi chè, những đồng cỏ gắn với phát triển chăn nuôi gia súc, đây là những sản phẩm có thể phát triển du lịch nông nghiệp.
Về địa hình, địa chất: Với điều kiện địa hình nhiều núi đá vôi, tạo nên hệ thống những hang động kỳ thú. Đó là tài nguyên để phát triển du lịch mạo hiểm, thám hiểm, trải nghiệm và khám phá.
Về tiềm năng văn hóa:
Việt Nam có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa đặc trưng riêng; đây được xem là những tài nguyên du lịch văn hóa đa dạng, phong phú tạo thành những sản phẩm du lịch văn hóa hấp dẫn, độc đáo.
Ngoài ra, Việt Nam có rất nhiều di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh, đây là tiềm năng to lớn để phát triển du lịch xanh.
Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, với 125 bãi tắm biển, trong đó hầu hết là các bãi tắm đẹp và thuận lợi cho khai thác du lịch. Bên cạnh đó, Việt Nam có 8 di sản vật thể và thắng cảnh được công nhận Di sản thế giới.
Việt Nam còn có cả kho tàng di sản văn hóa phi vật thể với 191 di sản thuộc cả 7 loại hình di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc sinh sống trên mọi miền đất nước, được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Có thể thấy, tài nguyên du lịch tự nhiên và văn hóa - nhân văn của Việt Nam rất phong phú, đa dạng, đó là điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch xanh.
Mặt khác, Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu. Do vậy, phát triển du lịch xanh là rất cần thiết nhằm góp phần phát triển một nền kinh tế xanh bền vững.
Nhận thức rõ được tiềm năng và vai trò của du lịch xanh, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/1/2017, khẳng định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó có phát triển du lịch bền vững; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên; giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và an sinh xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Ngày 22/7/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 882/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030. Theo đó, đối với lĩnh vực du lịch, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì 2 nhóm nhiệm vụ là “Hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh và bền vững” và ưu tiên phát triển các loại hình du lịch theo hướng tăng trưởng xanh (du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp và nông thôn, du lịch nghỉ dưỡng biển, đảo gắn với phát triển kinh tế biển xanh.
Trong số đó, nhóm nhiệm vụ “Hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh và bền vững” có 2 nhiệm vụ cụ thể là: “Xây dựng, triển khai hiệu quả Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 gắn với kinh tế xanh, kinh tế biển xanh” và “Hoàn thiện thể chế, chính sách ưu tiên phát triển du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp và nông thôn, du lịch cộng đồng. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá, triển khai hệ thống xếp hạng về tăng trưởng xanh cho các điểm đến du lịch, các cơ sở kinh doanh du lịch ở Việt Nam”. Đây là 2 nhiệm vụ thuộc nhóm A, có mức độ ưu tiên cao.
Nhóm nhiệm vụ “Ưu tiên phát triển các loại hình du lịch theo hướng tăng trưởng xanh, phát triển sản phẩm du lịch xanh” cũng gồm 2 nội dung là: “Phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ các loại hình du lịch theo hướng tăng trưởng xanh, chú trọng tính kết nối của kết cấu hạ tầng” và “Khuyến khích nhà đầu tư du lịch chú trọng đầu tư hệ thống thu gom, phân loại và tái chế nhằm tái sử dụng nước thải, rác thải cho các mục đích khác nhau”.
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng xác định: “Phát triển du lịch bền vững gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; bảo tồn, phát huy tối ưu các giá trị di sản văn hóa, lịch sử và tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt coi trọng bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu”.
Chiến lược đã nêu một trong những giải pháp mang tính hỗ trợ là: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản lý tài nguyên; kiểm soát, cảnh báo ô nhiễm và sự cố môi trường tại các khu, điểm du lịch và thực hiện các quy hoạch du lịch; Ứng dụng mô hình thương mại điện tử trong kinh doanh du lịch; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xúc tiến quảng cáo và xây dựng thương hiệu du lịch.
Đặc biệt, trong các nội dung liên quan đến “Tăng cường bảo vệ môi trường”, chiến lược đã thể hiện rõ những việc cần làm là: “Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao năng lực, nhận thức, ý thức về bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch; tăng cường xây dựng và triển khai thực hiện các đề án, nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch; tăng cường khả năng thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu; nâng cao năng lực kiểm soát ô nhiễm môi trường; thực hiện đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường đối với các đề án,dự án phát triển du lịch theo quy định hiện hành.
Từ chiến lược, chính sách phát triển du lịch của Nhà nước, có thể thấy, việc phát triển du lịch xanh được đặt ra như một nội dung chiến lược quan trọng của du lịch Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch.
Để cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành chính sách và nhiều hoạt động liên quan đến du lịch xanh như: Ban hành Bộ tiêu chí “Nhãn du lịch bền vững Bông sen xanh”; tổ chức “Tuần văn hóa Du lịch Di sản xanh - Nơi gặp gỡ con người và thiên nhiên”.
Nhờ đó, thời gian qua, một số địa phương đã tiên phong trong phát triển du lịch xanh. Trong đó, các tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Quảng Bình, Nghệ An đang đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng; Huế phát triển du lịch nhà vườn; Nha Trang phát triển du lịch biển đảo; một số tỉnh Nam Bộ phát triển du lịch miệt vườn.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện du lịch có trách nhiệm, hướng dẫn khách du lịch bảo vệ môi trường khi tham gia tour đi rừng, leo núi như tour thám hiểm hang động tại Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình); xây dựng các sản phẩm du lịch làm sạch môi trường như tour vớt rác tại Hội An (Quảng Nam), Sơn Trà (Đà Nẵng).
Khảo sát của Hội đồng Tư vấn du lịch Việt Nam (TAB) cho thấy, xu hướng của khách du lịch Việt Nam quan tâm nhiều đến du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch khám phá thiên nhiên đứng ngay hàng thứ 2 và có hướng tăng lên nhiều so với lần khảo sát trước đây (từ 48% tăng lên 56%).
Những hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những kết quả bước đầu, có thể khẳng định hiện nay hoạt động du lịch xanh chưa phát huy được hết tối đa tiềm năng và tồn tại những hạn chế nhất định.
Cụ thể, phát triển du lịch chưa gắn với khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, hiệu suất sử dụng tài nguyên thấp; phát triển du lịch chưa tính đến biến đổi khí hậu. Đặc biệt, việc phát triển nóng ngành du lịch đã gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường.
Tại nhiều khu, điểm du lịch xuất hiện các chất thải rắn, rác thải, nước thải chưa thu hồi, xử lý triệt để, việc phát triển du lịch làm gia tăng mức độ tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm không khí, nước, tiếng ồn, thay đổi cảnh quan thiên nhiên và thay đổi quân bình môi sinh đối với môi trường sống của sinh vật.
Ngày càng có nhiều cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch xây dựng trên các đảo không theo quy hoạch, đã làm tăng nguy cơ xói mòn đường bờ biển, làm suy thoái hệ sinh thái biển đảo.
Nước thải chưa qua xử lý từ các cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch xả trực tiếp vào môi trường, làm tăng mức độ hữu cơ nước biển ven bờ. Sự xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế và các ngành, tầm nhìn ngắn hạn và hạn chế về công nghệ dẫn tới một số tài nguyên du lịch bị tàn phá, sử dụng sai mục đích; những tệ nạn xã hội, văn hóa ngoại lai và những hạn chế trong nhận thức về bảo vệ môi trường đã làm giảm hiệu quả kinh tế do du lịch mang lại, làm môi trường xuống cấp, gây ảnh hưởng xấu tới hình ảnh và sự phát triển bền vững của du lịch Việt Nam.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do ngành du lịch chưa xây dựng, ban hành các hướng dẫn đầy đủ về tiêu chí, điều kiện, đánh giá tác động môi trường và hệ thống kiểm soát, quản lý các vấn đề về môi trường liên quan đến các hoạt động du lịch, nhất là với các cơ sở kinh doanh du lịch, gây lúng túng khi áp dụng trong thực tiễn; chưa có nghiên cứu đánh giá một cách toàn diện và hệ thống về môi trường du lịch Việt Nam làm căn cứ đề ra các giải pháp khai thác hợp lý tài nguyên, đảm bảo môi trường cho phát triển du lịch bền vững.
Về phía doanh nghiệp, vì mục đích kinh tế, với mục tiêu kinh doanh ngắn hạn là nhằm giảm chi phí và tăng thu, tăng lợi nhuận, nhiều công ty du lịch thay vì phải tiến hành điều tra khảo sát xây dựng chương trình tour, đánh giá cung - cầu để xây dựng sản phẩm du lịch phù hợp với xu thế hướng tới du lịch xanh, thì đã tiến hành việc “sao chép” sản phẩm du lịch của các công ty khác, mà chưa thực sự chú ý đến bảo vệ môi trường và sự phát triển lâu dài, bền vững.
Về phía khách du lịch, nhận thức về tiêu dùng xanh của khách du lịch còn kém. Khách du lịch là lực lượng chính hỗ trợ ngành du lịch và hành vi tiêu dùng của họ có tác động đến toàn bộ quá trình du lịch.
Tuy nhiên, do khái niệm tiêu dùng xanh, du lịch xanh vẫn còn mơ hồ, tính thuyết phục chưa cao, nên một số khách du lịch vẫn chưa ý thức được, vì vậy họ vẫn có những hành vi ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của du lịch xanh.